Chuyên đề triết học. Đạo đức học; Logic học | Tư duy phản biện; Nhập môn triết học; Nhận thức luận | Khoa học luận; Siêu hình học; Triết học giáo dục; Triết học lịch sử; Triết học nhân học; Triết học tinh thần; Triết học nghệ thuật; Triết học ngôn ngữ; Triết học tôn giáo
đối, đạo đức học ứng dụng và ảnh hưởng của nó đến các khuynh hướng triết học Đức trong thế kỷ XIX. Tuy nhiên, tác giả chưa có những đánh giá về những giá trị trong triết học đạo đức của I.Kant, đặc biệt là những giá trị mang tầm thời đại.
Triết học, đạo đức và tôn giáo Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa. 17/09/2018. Triết học Việt Nam tồn tại và phát triển trên cơ sở vừa khẳng định bản sắc dân tộc của mình, vừa tiếp thu mọi giá trị tích cực của các dân tộc khác. Theo tác giả, ở Việt Nam, yêu thương không những là một tình cảm tự nhiên, mà còn là một điều kiện để tồn tại, là lẽ
Nếu thấm nhuần tư tưởng của Đạo đức kinh, người lãnh đạo quốc gia hay công ty, doanh nghiệp sẽ hiểu mình, hiểu người, thoải mái và yêu đời hơn. Tri thức nội tại của Đạo đức kinh sẽ giúp họ nhìn rõ bản sắc của nền văn hóa truyền thống trước trào lưu Tây phương hóa. Vì thế, họ sẽ nhìn nhận sự việc rõ ràng hơn, làm được nhiều điều ơn ích hơn nữa.
Đức Hình: DDC: 170 - Triết học đạo đức, Đạo đức học: Ngôn ngữ: Việt: Số cuốn: 4: Hiện trạng các bản sách. Mã số: 215OP0009653: Nhà Xuất bản: Bộ văn hóa giáo dục và thanh niên: Năm Xuất bản: 1974: Khổ sách: 20
fAg7. * Ý thức đạo đứcÝ thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, công bằng, hạnh phúc, và về những quy tắc đánh giá,những chuẩn mực điều chỉnh hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau và giữa các cá nhân với xã đầu tiên chủ nghĩa Mác chỉ ra nguồn gốc hiện thực của sự ra đời các tư tưởng và nguyên tắc, tính lịch sử, tính giai cấp, vị trí và vai trò của đạo đức và ý thức đạo đức trong sự phát triển xã hội. Ph. Ăngghen viết “Con người dù tự giác hay khôngtự giác, rút cuộc đều rút ra những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi”. Khi xã hội xuất hiện giai cấp thì ý thức đạo đức hình thành và phát triển như một hình thái ý thức xã hội phát triển của hình thái ý thức đạo đức không tách rời sự phát triển của xã hội, phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi của con người. Sựtự ý thức của con người về lương tâm, trách nhiệm, nghĩa vụ, danh dự, nói lên sức mạnh của đạo đức, đồng thời cũng là biểu hiện bản chất xã hội của con người. Với ý nghĩa đó, sự phát triển của ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện sự tiến bộ củaxã thức đạo đức bao gồm hệ thống những tri thức về giá trị và định hướng giá trị đạo đức; những tình cảm và lý tưởng đạo đức, trong đó tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất, bởi vì, nếu không có tình cảm đạo đức thì tất cả những khái niệm, những phạm trù và tri thức đạo đứcthu nhận được bằng con đường lý tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo các xã hội có giai cấp, những nội dung chủ yếu của đạo đức mang tính giai cấp. Ph. Ăngghen viết “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ
Lượt xem 721 Tác giả bài viết Tiến sĩ LÊ VĂN TÙNG Trường Đại học Đồng Tháp NGUYỄN VĨNH PHONG Trường Đại học Đồng Tháp TÓM TẮT Từ cách tiếp cận khoa học phức hợp, Edgar Morin đã luận chứng nguyên nhân và hậu quả có thể đưa lại của những khủng hoảng về đạo đức, do sự bất lực của nhận thức trong việc nắm bắt tính phức hợp của thực tại. Đồng thời vạch ra sự cần thiết của việc xác lập một quan điểm mới về đạo đức – đạo đức học phức hợp, đạo đức của sự liên kết – một hệ thống quan điểm về những cơ sở và nguyên nhân của luân lý. Cách tiếp cận này có vai trò quan trọng trong việc nhận thức và giải quyết những vấn đề đạo đức mới, nảy sinh trong lý luận và thực tiễn thời đại ngày nay. Từ khóa Đạo đức học phức hợp, Phức hợp, Tự thân đạo đức, Tam vị nhất thể. xx x Hiện nay, toàn cầu hóa đã đưa lại điều kiện cho sự giao tiếp/đối thoại về văn hóa, sản sinh ra đời sống toàn cầu với các mối bận tâm chung được chia sẻ và cơ hội trình bày các khác biệt.*Chúng cũng mang đến những xáo trộn của đời sống đương đại, cạnh tranh kinh tế, giao tiếp đa văn hóa, sự tăng trưởng kiến thức, sự phổ biến của việc sử dụng công nghệ và dân chủ hóa đời sống xã hội.*Dưới góc độ đạo đức học, thời đại ngày nay đang nảy sinh những khủng hoảng về đạo đức, sự sản sinh và phổ biến của mô hình “tự kỷ – trung tâm”, tri thức bị chia tách theo những chuyên ngành chật hẹp và khép kín, sự mù lòa của trí tuệ không nhận thức được tính phức hợp của thực tại đang tác động làm ngày càng mờ nhạt những yếu tố vị tha, cái ác hoành hành. Do vậy, việc tái tạo lại đạo đức của con người từ các căn nguyên cơ bản qua tính phức hợp hay liên kết đạo đức là cần thiết để góp phần chống lại cái ác, khôi phục tình đoàn kết toàn cầu là một nhu cầu cấp bách. Với tinh thần đó, bài viết góp phần tìm hiểu một số nội dung cơ bản trong triết học đạo đức của Edgar Morin. 1. Edgar Morin sinh năm 1921 là nhà xã hội học, nhân học và triết học người Pháp. Sự nghiệp của Morin khá đồ sộ và đạt nhiều thành tựu. Morin được xem là một nhà tư tưởng hàng đầu của nước Pháp đương đại, “người cha đẻ của tư duy phức hợp”. Là một học giả quốc tế có uy tín, ông được tôn vinh là tiến sĩ danh dự tại hơn 20 trường đại học trên thế giới ở nhiều bộ môn khác nhau. Xuyên suốt các tác phẩm của ông là tính phức hợp và tư duy phức hợp. Trọng tâm lý luận của chúng là nỗ lực liên kết, đan dệt các khác biệt thành một “tấm thảm” chung, từ đó có thể gia tăng năng lực suy tư, lý giải và giải quyết cho những vấn đề cấp bách của thế giới đương đại. Theo Morin, phức hợp là sự liên kết, đan xen lại với nhau, tính phức hợp liên quan đến khối lượng khổng lồ những tương tác giữa các bộ phận cấu thành dị biệt, gắn bó hữu cơ với nhau tạo thành “tấm dệt chung” không thể phân cách hay quy giản được. 2. Theo Morin, nguyên nhân sâu xa của những khủng hoảng về văn hóa và đạo đức hiện nay là sự phổ biến mang tính áp đảo của mô hình “tự kỷ – trung tâm” đối với yếu tố vị tha nơi con người cá nhân tự chủ hóa, dẫn tới các đứt gãy của các quan hệ xã hội và tình đoàn kết. Bên cạnh tính chất phát triển của xã hội còn có những mặt trái làm suy tàn những thuần phong truyền thống của các dân tộc, kèm theo đó là sự suy yếu của các mệnh lệnh tinh thần và những quy định của thiết chế xã hội, tính chất quan liêu hóa, tham nhũng, bất chấp luân lý ngày càng gia tăng đáng kể trong xã hội hiện đại. Cùng với đó là sự suy yếu của bộ ba mà Morin gọi là “tam vị nhất thể” cá nhân, xã hội, giống loài. Con người ngày càng thiếu hiểu biết và thiếu trách nhiệm khi những kiến thức đã bị cắt xén, chia vụn ra từng ngành riêng biệt. Mỗi ngành đều có những khái niệm, lý thuyết riêng được hình thành như các lĩnh vực xã hội học, tâm lý học, vật lý học hay cả về chính trị, khoa học…, tất cả đều có nguy cơ đui mù về nhận thức, do không nắm bắt được tính phức hợp của thực tại. Sự ảnh hưởng của lối tư duy cổ điển, chuẩn thức đơn giản đã ảnh hưởng hàng mấy thế kỷ, kiến thức xuyên ngành, liên ngành cũng chẳng có sự liên kết với nhau thành một hệ thống hoàn chỉnh. 3. Bàn về cách tiếp cận đạo đức học phức hợp, Morin cho rằng, đạo đức học phức hợp là “một siêu quan điểm, bao hàm sự suy tư về những cơ sở và nguyên tắc của luân lý”, bao gồm những yếu tố tối cần thiết như “tư duy phức hợp và nhân học phức hợp” Edgar Morin, 2012, 6, là đạo đức của sự “liên kết chủ động”, nó như thân cây có ba cành nhánh gồm tự thân đạo đức, xã hội đạo đức và nhân học đạo đức. Đạo đức mang tính phức hợp bởi lẽ trong bản thân nó chứa đựng những đối hợp logic và sự bấp bênh về các mặt do những mâu thuẫn, trong đó có các mặt đối lập cùng tồn tại, bài trừ, đối kháng, tương tác lẫn nhau trên các lĩnh vực của đời sống như chính trị và khoa học, xã hội, chúng cũng liên kết tương tác làm nền tảng cho nhau cùng phát triển để tự tổ chức thành một thể hoàn chỉnh, đồng thời cũng rất mong manh trong việc xác định ranh giới giữa tốt/xấu; đúng/sai; tiến bộ/hay thụt lùi. Xem xét đạo đức trong mối quan hệ với khoa học – công nghệ, Morin cho rằng “khoa học – công nghệ cùng lúc vừa thành công, vừa thất bại. Cả hai đã thành công về vật thể, cả hai đã thất bại về đạo lý” Edgar Morin, 2012, bởi vì tính hai mặt của khoa học – công nghệ đã dẫn đến rào cản trong hành động về mặt đạo đức. Khi cuộc cách mạng khoa học – công nghệ phát triển, nó phục vụ cho con người với dụng ý tốt, làm cho cuộc sống được cải thiện, nhưng con người ngày càng lạm dụng đến mức không thể kiểm soát được về vấn đề hôn mê sâu, nạo phá thai, mang thai hộ…, loại bỏ những cá nhân lệch chuẩn và những yếu tố quy định tố chất của con người, tạo ra các chất nguy hiểm đe dọa loài người; ngoài ra còn dựa vào khoa học để phát triển một cách không tương xứng, gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái xung quanh, trái với đạo lý. Về sau, quyền lực và các phát minh của khoa học hoàn toàn bất lực trong việc kiểm soát nên bị thao túng để phục vụ cho chính khách – quyền lực nhà nước, những người mưu toan đi ngược với đạo đức loài người ở khắp nơi, tất cả đã đồng thời tác động ngược trở lại con người trên mọi lĩnh vực như diệt chủng, thảm họa hạt nhân hay vũ khí hủy diệt lớn, cướp giết… Những quy định, luật lệ, nhục hình được ban ra nhằm áp đặt một cách vô lý đối với đạo đức. Nhìn chung, hai vấn đề nghiêm trọng hơn cả là thảm họa hạt nhân và thảm họa sinh thái. Sự vô tư của khoa học trước mọi nhận định về mặt đạo đức đã tạo ra ranh giới của sự tách biệt giữa khoa học và đạo đức. Khoa học sẽ thiếu định hướng và phương pháp khi không có đạo đức song hành do sự chuyên môn hóa, chia vụn kiến thức, thiếu trách nhiệm. Do sự không kiểm soát của khoa học mà về sau tri thức khoa học liên quan đến đạo đức đã được đề cập, đồng thời cũng đặt ra các vấn đề khác về nhân học và đạo đức trước những mệnh lệnh đạo lý và tôn giáo mang tính nhân văn ẩn sâu trong những con người khoa học đó, và tạo ra những rào cản không cho phép việc áp dụng thí nghiệm khoa học trên con người. Bên cạnh đó là những giải pháp kèm theo nhằm cải tạo tư duy khoa học của nhà khoa học và sự kiểm soát của chính trị đối với đạo đức, tuy nhiên đạo đức và chính trị lại tách biệt nhau. Cùng với khoa học, chính trị cũng mang tính chất giống như mối quan hệ giữa khoa học và đạo đức, bởi các mệnh lệnh một mặt phải tuân thủ mệnh lệnh chính trị, mặt khác tuân theo niềm tin xác tín tạo ra sự đối kháng, sự hy sinh của cái tất yếu cho cái cấp thiết. Ngoài ra còn vấn đề ly hôn, hành vi can thiệp, đàn áp hủy hoại, những cái được cho là văn minh hóa chiến tranh, nhục hình; sự khó kiểm soát của khoa học vào quyền lực chính trị với những mục đích trái với đạo đức con người; chính trị kháng cự với những hành vi đàn áp của nhà nước đã kích động chủ nghĩa khủng bố nhằm vào bất kỳ ai. Điều đó cho thấy đạo đức bị xuống cấp ở vấn đề nhân quyền mà trong chính trị ít quan tâm. Morin viết, “người ta không thể cam chịu hòa tan đạo đức trong chính trị khi nó trở thành một thể chế đơn thuần là bạo tàn, cũng không thể mơ tưởng một nền chính trị sẽ chỉ là nữ tì cho đạo đức” Edgar Morin, 2012, là vì thế. Nhìn chung, theo Morin để có được một xã hội tốt đẹp chỉ có thể là xã hội phức hợp bao hàm sự đối kháng và bất định, đồng thời xã hội ấy phải chứa đựng các yếu tố tái hợp đạo đức như sự tin cậy, thông cảm, đoàn kết và trách nhiệm. 4. Bàn về bản chất của đạo đức học phức hợp, Morin làm rõ nó ở khía cạnh đạo đức về liên kết và sự bất định trong đạo đức. Theo ông, tư duy về đạo đức ở trong kinh thánh, pháp luật, tình yêu của mỗi người…, nhưng nhìn chung những quan niệm ấy đều cho thấy sự bất định và mâu thuẫn trong nhận thức theo cách nhìn nhận riêng và tùy thuộc vào hành động đạo đức được đề cập. Từ xa xưa, để liên kết con người lại với nhau, ngoài tình yêu còn cần có sự đam mê trên lý trí để không bị mông muội và cần có đạo đức cộng đồng. Cảnh sát, quân đội, pháp luật cùng với niềm tin tôn giáo của đấng tối cao với những giáo lý, giáo luật dạy con người sống thiện có đạo đức đã tạo ra những luân lý chung áp đặt cho toàn bộ xã hội và buộc mọi người phải tuân theo. Đạo đức cộng đồng cũng đã thể hiện ở khía cạnh con người đoàn kết với nhau để chống lại các vấn đề thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường…, từ đó khơi gợi suy nghĩ và thái độ đoàn kết, trách nhiệm, hướng tới tương lai tốt đẹp hơn. Theo Morin, đạo đức có nguồn gốc từ nội tâm của chủ thể với những mệnh lệnh tuyệt đối hay quy định từ những truyền thống văn hóa được đúc kết và khẳng định, đồng thời do sự truyền lại cho thế hệ sau những dòng gen, và những yếu tố này tương quan với nhau cùng tồn tại trong cơ thể con người. Nếu cái tôi cá nhân được đề cao để khẳng định bản thân thái độ tự kỷ – trung tâm, thì nhân tố vị tha vì mọi người sẽ giảm xuống, và hai mặt này đấu tranh đối kháng với nhau trong cùng một cơ thể người, nhưng trước sự phát triển của cá nhân luận ấy, con người muốn quay trở về cội nguồn xa xôi với những cơ sở của sự liên kết chủ động về đạo lý. Lòng vị tha sẽ giúp con người chủ động tạo sợi dây liên kết đạo đức với nhau thông qua ý thức, trách nhiệm, đoàn kết và giúp đỡ, để tạo nên nền đạo đức luân lý chung cho cộng đồng xã hội trước sự rạn nứt đạo đức trong bộ ba cá nhân – xã hội – giống loài, trước sự phân chia kiến thức thành từng mảnh nhỏ dẫn đến sự mù lòa về nhận thức và sự bất định đạo đức trong hành động. Sự bất định, mâu thuẫn của đạo đức được Morin thể hiện rõ trong sinh thái hành động đạo đức, vì nhận thức được dụng ý đạo đức cho đến hành vi và kết quả của hành động có thể thay đổi trong sinh thái hành động được diễn ra hành vi đạo đức. Cụ thể như dụng ý đạo đức có ý nghĩa trong hành vi đạo đức, nhưng đôi khi hệ quả của hành vi đạo đức lại trở thành vô đạo đức và ngược lại hệ quả của hành vi vô đạo đức lại trở thành đạo đức, và hành động ấy có thể quay ngược trở lại chính bản thân nó. Những mâu thuẫn, xung đột giữa các mệnh lệnh xuất hiện cùng với những chuẩn thức khái quát hóa, trừu tượng hóa và chuyên biệt trên các lĩnh vực khác nhau từ sự chia vụn kiến thức, làm nảy sinh những hệ quả bất ngờ ngoài ý muốn của chủ thể. Cũng theo Morin, nhận thức thiếu chín chắn về đạo đức khiến con người nhìn nhận quá trình tự thân đạo đức là tính tất yếu. Quá trình này là đưa tự kỷ – trung tâm vào kỷ luật và phát huy đức tính vị tha của mọi người. Trong sự phức hợp cũng chứa sự chia tách/liên kết với nhau theo nguyên tắc đối hợp logic, hồi quy và toàn hình. Để tạo sự liên kết chủ động, cần phải cải cách tư duy cổ điển thành tư duy phức hợp – chuẩn thức phức hợp, nhằm cải cách tư duy và lý trí của con người, biết chấp nhận thân phận bản thân và người khác, chấp nhận sự dị biệt và đồng nhất, để liên kết cá nhân – xã hội – giống loài trên “thái độ thừa nhận tính thống nhất của các đa dạng nhân loại và các đa dạng của tính thống nhất nhân loại” Edgar Morin, 2012, nhằm tạo thành “tấm dệt chung” không thể phân tách. Thêm vào đó, những hạn chế của nhận thức và năng lực tự phê phán dần đưa chủ thể đến đạo lý thô thiển mà ở đó tồn tại sự căm giận, hận thù, khinh miệt và chủ trương quy giản để đánh giá nhân tính của người nào đó là vô đạo đức, hoặc hạ thấp, vứt bỏ họ ra ngoài nhân loại mặc dù thời gian và hoàn cảnh đã thay đổi và họ đã biết lỗi lầm của mình. Thứ đạo lý ấy dần dẫn con người đến thuyết “lưỡng nguyên thiện ác” Edgar Morin, 2012, ngày càng phân tách, và sự hiểu lầm ngày càng gia tăng giữa các nhân tính với nhau. Ngoài việc đánh giá, nhận xét và phê phán những nhân tính khác thì buộc chủ thể cũng phải suy nghĩ về nội quan bên trong của mình để biết được những bất cập, thiếu sót và nhược điểm của bản thân. Con người thường có một tự kỷ – trung tâm, áp đặt một cách chủ quan những suy tư, quan điểm trong sự mù lòa về nhận thức để đánh giá những nhân tính khác, và họ thường có cơ chế tự biện minh cho bản thân dù đó là hành động đúng hay sai, “rộng lượng với sai lầm của bản thân mà quá nghiêm khắc với sai lầm của kẻ khác” Edgar Morin, 2012, Cũng theo Morin, cần phải tự thân xem xét, tự phê phán vì “tự phê phán là trợ thủ đắc lực để chống ảo tưởng tự kỷ – trung tâm và mở rộng hướng ra người khác” Edgar Morin, 2012, đồng thời cũng là chống cự việc tự biện minh, tiếp theo là tinh thần chấp nhận sự phê phán của người khác trên thái độ hòa nhã, khoan dung. Morin cho rằng, trên một hành tinh với tính đa quốc gia, đa dân tộc, văn hóa, tín ngưỡng như hiện nay, sự thống trị của sự thiếu hiểu biết là điều không quá bất ngờ. Nhưng chính sự không hiểu biết ấy lại làm cho con người hiểu lầm nhau qua những hành vi nhận xét sai lệch, đồng thời sự thù hận và khinh miệt đã góp phần tái sinh hành vi thấp hèn. Để tạo ra sự hiểu biết và đồng cảm lẫn nhau, con người cần phải có sự hiểu biết ở cả ba tầng diện khách thể, chủ thể, phức hợp trong quá trình đối hợp với nhau, nhằm hiểu người hiểu ta và hiểu hoàn cảnh, hành vi của nhân tính để có được thái độ chín chắn hơn. 5. Để tiến tới nền đạo đức phức hợp, thì giáo dục là không thể thiếu. Ý tưởng về một nền giáo dục giàu lòng thông cảm, Morin cho rằng nền giáo dục tương lai “cần giảng dạy thái độ thông cảm ngay ở cấp tiểu học, tiếp tục ở trung học, đến đại học nữa” Edgar Morin, 2012, Theo đó, phải có một bộ môn dạy thái độ thông cảm lẫn nhau giữa con người, môn học ấy tích hợp các nội dung đa dạng của các nền văn hóa, kiến thức khoa học nhân văn với nhau, được lồng vào những bài thơ ca, văn chương, điện ảnh hay đơn giản là một bài diễn thuyết để góp phần xây dựng thái độ tích cực cho con người từ đầu đời đến khi trưởng thành, đó là bước đệm cho việc xây dựng đạo đức mới. Đồng thời con người không thể sử sụng hành động trả miếng – trả thù, vì chỉ làm sự mâu thuẫn, đối kháng và phân tách ngày càng thêm trầm trọng. Để chống trả lại cái ác độc của thế giới và thói dã man của loài người, phải “hợp tác, hiểu biết thông cảm, hữu nghị, cộng đồng, tình yêu trong điều kiện chúng được kèm theo bởi trí thông minh mà nếu thiếu hụt ắt có lợi cho sức mạnh ác độc” Edgar Morin, 2012, đồng thời cũng cần có sự hy sinh vì người khác, nếu không thế giới này sẽ dễ trở thành nơi ngự trị của sự cưỡng bức, phá hoại và sự tan rã vô đạo đức. Muốn kiến tạo một nền đạo đức mới, theo Morin phải tiến hành cuộc cải cách tổng hợp trên 5 phương diện Cải cách xã hội nhằm phục vụ ý thức trách nhiệm, tinh thần đoàn kết phục vụ cho chất lượng của cuộc sống; Cải cách cuộc sống để sống tốt và có chất lượng hơn; Cải cách mối quan hệ giữa con người với nhau, với xã hội và môi trường tự nhiên mà không đánh mất tự chủ của bản thân, tái sinh đạo lý nhằm kích hoạt tiềm năng của ta về vị tha và tính cộng đồng; Cải cách khoa học nền khoa học được cải cách thì sẽ góp phần vào cuộc cải cách tâm trí, cho con người một tri thức luận về thế giới, con người; Cải cách giáo dục/tâm trí khả năng tư duy phức hợp các vấn đề toàn cầu và căn bản về nhân thân và xã hội, nó đưa tới một phương thức tư duy cho phép thấu triệt những vấn đề toàn hành tinh, và ý thức được những nhu cầu chính trị – xã hội – đạo đức. 5 con đường cải cách trên cần phải tiến hành một cách tổng hợp vì chúng phụ thuộc và tác động bổ sung lẫn nhau, chúng không thể đơn độc vì phải đối mặt với sự chống trả của những sức mạnh ảo tưởng và sai lầm của con người. Cụ thể, theo Morin, giáo dục với chủ đích là truyền đạt tri thức lại đang đui mù trước nhận thức của con người do những sai lầm và ảo tưởng sống bám vào đầu óc con người từ xưa tới nay. Để khắc phục điều này, theo ông, nền giáo dục mới cần đưa vào và phát triển việc nghiên cứu các đặc điểm trí óc, tinh thần, văn hóa của tri thức con người, những tiến trình và phương thức của nó, những xu thế cả về tâm lý và văn hóa vẫn hay đưa nó đến sai lầm và ảo tưởng. Ông cũng cho rằng, giáo dục cần phát triển nhận thức, khả năng nắm bắt những vấn đề tổng quát, những đối tượng trong bối cảnh, trong tổ hợp, trong tổng thể của chúng, đặt trong các vấn đề tổng quát những nhận thức từng phần và địa phương, bên cạnh đó cần phát huy năng lực tự nhiên của đầu óc, việc giảng dạy cần cung cấp các phương pháp cho phép nắm bắt những tương quan và những ảnh hưởng tương hỗ giữa bộ phận và toàn bộ trong một thế giới phức hợp. Từ tình trạng phân mảnh tri thức trong giáo dục ngày nay, từ quan điểm xem bản chất con người là một nhất thể phức hợp, Morin cho rằng, hoàn cảnh con người cần trở thành đối tượng cơ bản của tất cả mọi sự giảng dạy. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa đang đưa tới tính chất toàn cầu của nhân loại. Do vậy, nhận thức về sự phát triển của thời đại toàn cầu phải trở thành một trong những nội dung hàng đầu của giáo dục. Từ chỗ khẳng định cái bất xác định đang định hình nơi nhận thức và thực tiễn nhân loại, Morin cho rằng, giáo dục phải bao hàm một sự giảng dạy những bất xác định, những nguyên tắc chiến lược cho phép con người đương đầu với chúng. Morin cũng chỉ rõ vai trò của thông cảm và giảng dạy sự thông cảm trong giáo dục nhằm hướng tới nền giáo dục phụng sự hòa bình. Thiếu vắng giáo dục sự thông cảm là nguyên nhân gốc rễ của kỳ thị, bài ngoại, khinh biệt và xung đột. Đồng thời, ông vạch rõ tầm quan trọng của việc xây dựng đạo lý của nhân loại, tức tình đoàn kết toàn cầu. Morin khẳng định, tất cả những phát triển thực sự của con người phải bao gồm sự phát triển cùng lúc những độc lập cá nhân, những tham gia cộng đồng và ý thức mình thuộc về nhân loại, nhằm hướng tới phát triển một cộng đồng toàn cầu và xây dựng những công dân địa cầu. Đạo đức toàn hành tinh muốn được thiết lập thì trước nhất phải thiết lập đạo đức cá nhân con người – nhân học, từ sự nhìn nhận cái khác biệt và đồng nhất trong mối quan hệ giữa con người với nhau, với tự nhiên sinh thái, với xã hội – thế giới, nhằm tạo thêm quan hệ sâu rộng chứ không đánh mất bản chất của cá nhân trong việc đưa đạo đức phổ quát thành cụ thể. Con người ngày càng đoàn kết, vị tha, có trách nhiệm hơn trong thời đại toàn cầu hóa trước sự bất lực trong các vấn đề sống còn để tránh những hiểm họa diệt vong của loài người. Để được như vậy, phải cải cách ba quan hệ cá nhân – xã hội – giống loài, bao hàm các cải cách về xã hội, tâm trí, cuộc sống, giáo dục và khoa học để chuẩn bị cho cuộc biến hình đầy bất trắc nhưng đầy kỳ vọng này. 6. Khái niệm cái ác và cái thiện là hai phạm trù trong đạo đức, đây là hai khái niệm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chứa đựng mâu thuẫn trong sự thống nhất chung để tạo sự bất toàn nhằm kích thích tạo ra cái tiến bộ hơn. Cái ác, theo Morin, là sự phân cách từ trong vũ trụ cho đến cá thể sống, làm cho sự tan rã phá vỡ tổ chức, sự thống nhất dựa trên nền tảng của sự phân cách mà thành. Cái ác nhiều và mạnh hơn để chống lại cái liên kết cái thiện nhằm tạo ra sự bất toàn để thiết lập cái mới. Chúng bao gồm cái ác của con người đối với thiên nhiên, với cuộc sống và đặc biệt là cái ác tự ý chủ động làm hại người khác do sự thiếu hiểu biết, lòng căm hận, ích kỷ, không thông cảm, dối trá thái quá – điên cuồng, tính tự kỷ – trung tâm của con người dẫn đến tình trạng tan rã, bạo lực, diệt chủng và tàn phá… Nhìn chung, cái ác là một thể hợp trội trong hoàn cảnh đặc thù chứa đựng mâu thuẫn và bất trắc không thể hợp nhất và gút gọn thành nguyên tắc. Song hành cùng với cái ác là cái thiện của sự liên kết chống lại sự phân cách tan rã, ứng phó với những nan giải xuống cấp, đặt biệt là chống lại cái ác độc của thế giới và thói dã man của con người trên nền tảng mong manh, thiếu chắc chắn, bên cạnh những hy vọng cũng đầy rẫy sự thất vọng. Đạo đức phức hợp là đạo đức của sự liên kết, đạo đức của tình bác ái, tình yêu, thông cảm, vị tha và chấp nhận con người, làm cho bản thân liên kết với người thân, người xung quanh và nhân loại nhờ việc tái sinh lại chủ nghĩa nhân văn thông qua cuộc biến hình đầy cá cược để hình thành “Trái đất – Tổ quốc chung”. Đối với Morin, cứu cánh tối hậu của đạo đức là việc chống lại cái ác độc và man rợ; là sự hoàn thành cuộc sống con người. 7. Nhìn nhận và đánh giá về di sản lý luận của Edgar Morin, ở đây là triết học đạo đức của ông, không phải là một nhiệm vụ lý luận dễ dàng. Bởi lẽ, tất cả những mục đích của “hệ thống” quan điểm do ông xây dựng đều tập trung vào “tính phức hợp”, vào “sự liên kết”, tức ý định xác lập một lý thuyết thống nhất lớn trong triết học về thực tại với tính phức hợp của nó, và bản thân cách tiếp cận phức hợp cũng đã bao hàm trong nó việc chống lại thái độ “tự kỷ – trung tâm”, chống lại tư duy đơn giản hóa, vốn giam hãm loài người trong trí tuệ mù lòa. Nhưng sẽ là không thỏa đáng nếu nhìn nhận nó như là một chủ nghĩa chiết trung về đạo đức. Bởi vì, Morin xây dựng cách tiếp cận phức hợp dựa trên sự thấu hiểu những thành tựu khoa học hiện đại trong vật lý học, sinh học, lý thuyết hệ thống, điều khiển học, lý thuyết thông tin, lý thuyết tự tổ chức và các chất liệu từ hiện thực xã hội sôi động của thế kỷ XX, cũng như lịch sử triết học thời trước. Cùng với nhiều cách tiếp cận đạo đức học đã có trước đó, như khuynh hướng duy lý – duy khoa học, khuynh hướng phi duy lý và khuynh hướng tôn giáo, cách tiếp cận phức hợp của Morin đã đưa lại cho triết học đạo đức một công cụ lý luận để nắm bắt và lý giải cho những vấn đề phức tạp và cấp bách khủng hoảng văn hóa, khủng hoảng đạo đức, cái dã man, cái độc ác nảy sinh trong thực tiễn và lý luận đạo đức hiện đại. Xem xét đạo đức trong tính phức hợp của nó, trong các mối quan hệ đa diện, nhiều tầng và cụ thể của nó, triết học đạo đức của Morin thể hiện một số ý tưởng đồng kết với các nguyên tắc phương pháp luận của triết học mác xít quan điểm khách quan, quan điểm thực tiễn, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử – cụ thể và quan điểm phát triển trong nhận thức và cải tạo thực tiễn đạo đức, hướng tới việc kết nối giữa tiến bộ lý trí và đạo đức nhằm giải thoát con người khỏi cái ác, lấy đạo lý nhân tính làm cứu cánh hướng đến hoàn thiện con người thay vì lấy nhau làm phương tiện. Từ ngàn xưa, việc xua đuổi cái ác và tạo lập cái thiện là một nghĩa vụ tự thân mà loài người dùng để chấp nhận số phận của mình như là những sinh vật có đạo đức. Theo quan điểm đạo đức học mác xít, chỉ có thể hiểu biết và xây dựng thành công một nền đạo đức mới, ở đó “tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” như K. Marx nói, chừng nào xã hội không còn áp bức, bóc lột và bất công. Bởi theo chủ nghĩa Marx, xóa bỏ chế độ tư hữu là tất yếu của việc giải phóng con người khỏi sự tha hóa. Và với tư cách là phong trào hiện thực, chủ nghĩa cộng sản là hình thái xã hội khả thể cho việc xây dựng một nền đạo đức tiến bộ và thực sự nhân văn. Nếu không, các bàn luận về đạo đức chỉ dừng lại ở sự trừu tượng, phi lịch sử, dù cho nó có tin tưởng và quý trọng con người đến đâu chăng nữa. * * * Sự phát triển của khoa học và thực tiễn trong thế kỷ XX đã đưa lại cho nhân loại bức tranh về một thực tại với tính phức hợp của nó, trong đó có thực tại đạo đức. Đối diện với tính phức hợp của đạo đức, của cái thiện, cái ác, khủng hoảng văn hóa, khủng hoảng đạo đức, theo Morin, đạo đức học phức hợp có nhiệm vụ nghiên cứu, làm sáng tỏ các cơ sở và các nguyên tắc của luân lý. Cũng tức là nhấn mạnh vai trò của việc liên kết chủ động với người khác, với cộng đồng, với xã hội và với nòi giống. Điều kiện để thực hiện chúng tương ứng với ba nhánh của đạo đức học là tự thân đạo đức, đạo đức xã hội và đạo đức nhân loại, mục đích cuối cùng của đạo đức là việc chống lại cái ác độc, man rợ và hoàn thiện cuộc sống con người. Triết học đạo đức của Edgar Morin trên các khía cạnh, có những điểm đồng kết với quan điểm phương pháp luận của triết học mác xít, góp thêm một công cụ lý luận cho việc xem xét và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn và lý luận đạo đức hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Vũ Hảo 2013, “Đạo đức học phương tây đương đại Tổng quan các trào lưu và các vấn đề chủ yếu”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 4. 2. Phạm Khiêm Ích 2013, “Đạo đức học phức hợp qua bộ sách của Edgar Morin”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 2. 3. Phạm Khiêm Ích 2008, “Edgar Morin và triết học gáo dục”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 8. 4. Edgar Morin 2012, Phương pháp 6 – Đạo đức học, Chu Tiến Ánh dịch, Phạm Khiêm Ích biên tập và giới thiệu, Nxb. Tri thức, Hà Nội. 5. Edgar Morin 2008, Nhập môn tư duy phức hợp, Chu Tiến Ánh và Chu Trung Can dịch, Phạm Kiêm Ích biên tập và giới thiệu, Nxb. Tri thức, Hà Nội. 6. Edgard Morin Chủ biên, 2005, Thách đố của thế kỷ XXI – Liên kết tri thức, Bản dịch của Chu Tiến Ánh và Vương Toàn, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 7. Edgard Morin 2008, Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai, Bản dịch của Nguyễn Hồi Thủ, Nxb. Tri thức, Hà Nội. Nguồn Thông tin Khoa học xã hội, số 5-2016 Thánh Địa Việt Nam Học
Con người không chỉ sống để thỏa mãn các nhu cầu bản năng nhưng còn theo đuổi các giá trị mà chúng ta tin rằng sẽ giúp cuộc sống trở nên hạnh phúc hơn. Chúng ta đánh giá mọi hành vi và chọn lựa của mình giữa trên các giá trị này. Tốn tại với các yếu tố di truyền hay môi sinh thì chúng ta thật sự tự do chọn lựa các giá trị này không? Các giá trị này đến từ đâu và dựa trên những tiêu chuẩn phán đoán nào? Các tiêu chuẩn ấy là tương đối hay tuyệt đối? Chủ quan hay khách quan? Có phù hợp với viễn tượng nhân bản không? Cuối cùng, tại sao chúng ta “nên” sống đạo đức? Đạo đức học là môn nghiên cứu các chủ đề rộng lớn và quan trọng này. Từ “ethics” đạo đức học, luân lý học bắt nguồn từ tiếng Hy lạp “ethos”, có nghĩa là “phong tục” số ít và ở số nhiều “ethe” mang nghĩa “tính cách”. Từ “morality” cũng có nghĩa tương đương như trong tiếng Hy lạp, bắt nguồn từ tiếng La tinh “mos” và mores ở số nhiều. Tuy nhiên, từ “ethics” thì thông dụng hơn trong phạm vi triết học, còn “morality” thì được dùng nhiều hơn khi nói về thần học luân lý. Từ các nghĩa gốc này cho thấy đạo đức học liên quan đến các “hành vi” phong tục chúng ta phải làm lẫn “tính cách” loại người chúng ta muốn trở thành. Hai chủ đề này liên quan mật thiết với nhau, vì tính cách của chúng ta được hình thành chủ yếu từ cách thức chúng ta quen hành động. Các nghĩa gốc này cũng giúp chúng ta hiểu tại sao chúng ta gọi đạo đức học là học về cách phải sống đời mình thế nào Đạo đức học là môn học về cách cư xử và tính cách đúng đắn của con người. Triết học không phải là môn học duy nhất xem xét cách cư xử và tính cách đúng đắn. Thần học cũng bàn về các vấn đề cơ bản này. Tuy nhiên, câu trả lời của thần học luân lý thì dựa trên các giả thuyết được chấp nhận bởi đức tin tôn giáo. Triết học đạo đức thì cố gắng cung cấp các câu trả lời hoàn toàn dựa trên lý trí và kinh nghiệm. Trong khi cách giải thích về giáo lý tôn giáo có thể khác biệt nhưng nền tảng căn bản của thần học luân lý thì không thể bị tranh cãi. Trái lại, trong triết học đạo đức, mọi câu hỏi đều có thể được đem ra bàn luận—ngay cả câu liệu có một đạo đức học đúng hay không? Tuy nhiên, có một số nhà tư tưởng vừa là triết gia, vừa là thần học gia nhận thấy có sự hòa hợp giữa thần học luân lý và triết học đạo đức, cho dù các điểm xuất phát của hai môn học này thì khác nhau. Nói chung, có ba vấn để nền tảng trong đạo đức học. đó là 1 mối tương quan giữa đạo đức học và bản tính con người, 2 khai triển các giá trị và tiêu chuẩn để phán đoán các hành vi đạo đức, và 3 và lý giải cho mục đích của đời sống đạo đức. Đạo Đức học và Bản tính Con người. Có nhiều cách trả lởi cho câu hỏi “chúng ta nên sống đời mình thế nào để đạt hạnh phúc?” nhưng có lẽ cách thông thường nhất là chúng ta nên sống thế nào để chúng ta thể hiện bản tính con người. Như thế, trước tiên chúng ta phải xác định một cách tổng quát về bản tính con người và rồi cắt nghĩa làm thế nào chúng ta thể hiện được bản tính ấy. Nếu chúng ta chủ trương rằng bản tính con người là yêu thương thì đạo đức sẽ nhắm tới cách dùng lý trí để gia tăng hay củng cố sự yêu thương nơi con người. Nếu bản tính con người là tìm kiếm thỏa mãn hay hạnh phúc cho mọi người, thì tiêu chuẩn đạo đức phù hợp với mục đích ấy sẽ là vị lợi. Nếu bản tính chúng ta là thể hiện các khuynh hướng tự nhiên của con người, thì đạo đức học sẽ là việc khai thác cách áp dụng quy luật tự nhiên. Nếu con người là một thực thể mang tính xã hội, xem tha nhân như chính mình, thì các tiêu chuẩn đối xử công bằng và tôn trọng tự do của tha nhân sẽ là bổn phận thiết yếu của mọi thành viên trong xã hội. Mặt khác, nếu chúng ta cho rằng bản tính con người không hoàn toàn là tốt, thì đạo đức là tìm cách thống trị, sửa sai các khuynh hướng tự nhiên của con người. Ví dụ, người ta có thể coi con người cơ bản là ích kỷ thì đạo đức học cần giúp khắc phục khuynh hướng vị kỷ hầu để đem lại lợi ích cho người khác. Khi triết gia phủ nhận về một bản tính chung thì giá trị đạo đức là thể hiện sự tự do tự sáng tạo qua các chọn lựa độc đáo của mình. Khó khăn ở đây là làm sao dung hòa sự mâu thuẫn giữa loại tự do tự tạo của mình với tự do của tha nhân. Cũng có những nhà nghiên cứu đạo đức học cho rằng yếu tố phái tính chi phối bản tính con người, do đó các nguyên tắc đạo đức tốt cho nam giới không thể giúp phụ nữ phát triển toàn diện và thể hiện bản tính chân thực của họ. Như thế thì “bản tính con người” vẫn còn là một vấn nạn lớn cho đạo đức học. Đó là khuynh hướng tự nhiên hay bản năng của con người, hay là những tập tục, thói quen xuất phát từ truyền thống tôn giáo, văn hóa? Trong khi chưa có sự thống nhất về định nghĩa của “bản tính con người” thì khó mà đạt đến một quan điểm chung về đạo đức học. Các tiêu chuẩn đánh giá đạo đức Đạo đức học nghiên cứu về cách chúng ta phán đoán một hành vi nhân bản là tốt hay xấu, đúng hay sai, căn cứ trên các tiêu chuẩn đạo đức được giả định. Từ thời Cổ Đại Hy Lạp, con người đã nhận biết có những qui luật chi phối lương tâm con người cao cả hơn là qui luật xã hội hay vua chúa. Trong vở kịch “Antigone” của Sophocles, Antigone đã áp dụng qui luật này để biện minh cho hành vi chôn cất xác người anh ruột, cho dù đó là điều bị vua Creon cấm vì người anh đó đã nổi loạn chống lại chính quyền thành Thebes. Những qui luật đạo đức nền tảng đó qua thời gian đã kết hợp thành các tiêu chuẩn đạo đức. Trong lịch sử có một số tiêu chuẩn đạo đức được khai triển và chấp nhận rộng rãi như đạo đức học vị kỷ, đạo đức học vị lợi của Bentham & Mill, đạo đức học luật tự nhiên, đạo đức học bổn phận của Kant, đạo đức học nhân đức của Aristote. Cả bốn tiêu chuẩn đạo đức đầu tiên đều nhắm vào hành vi làm thế nào chúng ta có thể quyết định hành vi hay chọn lựa nào thích hợp nhất cho hoàn cảnh của mình? Tuy nhiên, đạo đức học nhân đức nhắm vào sự thiện hảo của con người cái gì tốt nhất cho con người như là một chủ thể luân lý? Làm thế nào để giúp con người thể hiện sự hoàn hảo luân lý của mình? Sự hiểu biết và ý định của chủ thể rất cần thiết trong công việc phán đoán đạo đức. Cả hai đạo đức học vị lợi và vị kỷ đều phán đoán dựa trên các hậu quả mà hành động hay tính cách tạo ra consequentialism. Ví dụ, chúng ta khen ngợi các hành động bảo vệ môi trường vì chúng giúp thế hệ chúng ta và các thế hệ tương lai sống khỏe mạnh hơn và tốt đẹp hơn. Chúng ta kết án hành động giết người vì sự thiệt hại nó gây ra cho gia đình và bạn bè của nạn nhân, cho cộng đồng nơi tội ác diễn ra, và cho xã hội nói chung. Chúng ta khen ngợi tính quảng đại vì nó giúp một người biết quan tâm tới người khác và thăng tiến hạnh phúc của họ. Chúng ta kết án sự căm ghét vì nó làm hại người bị căm ghét, giảm nhân tính của người có lòng căm ghét, và làm xã hội xấu đi. Đạo đức học luật tự nhiên nhấn mạnh vào ý hướng của hành vi intentionalism. Giả sử tôi giúp cứu chữa một đứa bé em bé bị xe tông, chắc chắn hành động của tôi sẽ được xem là tốt. Nhưng hành động này là tốt cho dù tôi không cứu được mạng sống đứa bé, vì tôi đã có ý hướng giúp người bị nạn và tôi đã làm hết sức của mình. Giả sử đứa bé lớn lên rồi trở thành một tên giết người hàng loạt, thì hành động của tôi vẫn được xem là tốt về mặt đạo đức vì ý hướng tốt đứng sau hành động ấy. Ngược lại, nếu tôi là một dược sĩ và giả tạo các dữ liệu nghiên cứu để công ty có thể được phê chuẩn một thứ thuốc mới, và tôi được thưởng nhiều tiền. Dữ liệu sai lạc của tôi làm cho thuốc này được phê chuẩn, và nó lại trở thành một thứ thuốc an toàn và chữa trị bệnh nhân rất tốt. Nhưng hành vi giả tạo của tôi là sai đạo đức, cho dù kết quả sau cùng là tốt. Đạo đức học bổn phận lý luận rằng tiêu chuẩn dùng để đánh giá đạo đức của một hành động hay một tính cách hệ tại một số đặc tính hình thức nào đó mà hành động này có formalism. Theo một lý thuyết như thế, một hành động chỉ là tốt về đạo đức nếu nó có tính chất là “có thể trở thành phổ quát”—mọi người trong cùng hoàn cảnh sẽ thực hiện. Như thế, để xác định một hành động là đạo đức, chúng ta phải giả định là mọi người cùng thực hiện hành động ấy. Ví dụ, nếu một mình tôi trốn thuế thu nhập thì chính phủ sẽ vẫn hoạt động bình thường, nhưng hành động trốn thuế của tôi là sai trái vì chính phủ sẽ sụp đổ nếu không ai đóng thuế thu nhập. Cuối cùng đạo đức học nhân đức virtues ethics quan niệm rằng một con ngưởi với cá tính tốt thì hành động hay phán đoán của họ sẽ thể hiện tính cách tốt của tác nhân. Do đó, qua thói quen dùng lý trí để chọn cái “trung dung” giữa bất cập và thái quá trong cuộc sống, chúng ta tạo nên một “cá tính thứ nhì” hầu mang lại hạnh phúc và thiện hảo cho cuộc sống. Nhân đức là sức mạnh giúp con người thể hiện tiềm năng cá nhân và trở thành loại người mà chúng ta muốn trở thành. Con người có nhân đức thì sẽ biết biện phân giữa các mục đích công cụ và nội tại, cùng với sự chọn lựa tốt nhất trong mọi hoàn cảnh. Các nhân đức bổ túc cho nhau, và cuộc sống là một tiến trình phát triển nhân đức không ngừng. Tại sao phải sống đạo đức? Một ví dụ cụ thể. Giả sử tôi đồng ý với xã hội rằng ăn cắp là sai, lấy tài sản của người khác là nghịch với đời sống chính trực. Rồi giả sử một hôm tôi đi trên con đường phố vắng vào ban đêm và nhặt được một cái ví với 10 triệu đồng, cùng với tên và địa chỉ của người mất cái ví ấy. Đạo đức học đòi hỏi tôi phải trả lại số tiền ấy cho người bị mất. Nhưng tôi suy nghĩ rằng, nếu tôi bỏ chiếc ví này vào túi mình thì cũng chẳng ai biết, và lấy số tiền ấy để mua một máy vi tính mới thật hấp dẫn biết bao. Tôi tự hỏi, liệu mình phải làm hành vi đạo đức là trả lại cái ví tiền, hay làm hành động hấp dẫn là có một cái máy vi tính mới toanh. Trong bóng tối không ai biết gì cả, thì tại sao tôi phải hành động đạo đức? Có lý do chính đáng nào để tôi chọn sống chính trực thay vì sống thú vị hơn hay không? Đạo đức liên hệ đến mục đích cuối cùng mà lối sống phong tục, tập quán, hạnh kiểm, của một người, quốc gia, thời đại đã được tự ý công nhận. Nó bảo ta những việc phải làm, giúp ý chí nhận ra những quy luật cần thiết, và giúp con người biết sử dụng tự do theo cách đúng đắn để đạt tới cuộc sống hạnh phúc. Nó còn là cuộc sống hợp với nhân phẩm, được thúc bách bởi lý tưởng và hướng dẫn hành động về những mục đích tạo nguồn bình an cho con người. Ta biết những điều thiện ấy một cách khách quan, vì chúng là tốt cho cộng đoàn và cá nhân. Nhưng điều thiện là tốt vì lý do nào, có phải vì nó tốt hay ta muốn chọn nó? Một người làm việc tốt nhưng với mục đích xấu có phải là người tốt không? Hoặc một người có ý tốt nhưng lại làm điều không tốt do không biết, liệu người ấy có phải là người xấu không? Như thế, cách lập luận khách quan trên đây cần phải được bổ túc bởi sự tìm kiếm tri thức của chủ thể luân lý, tức là cách chủ thể hiểu và lý giải cho động lực và hảnh vi của mình. Nhiệm vụ của đạo đức học là tìm các hướng dẫn để giúp chúng ta đạt được mục tiêu mà chúng ta giả thiết thì câu hỏi “Tại sao nên sống đạo đức?” nằm ở ngoài lãnh vực của triết học đạo đức. Chúng ta sống đạo đức có thể là vì những lý do thực tiễn, không thuộc phạm vi triết học sợ bị luật pháp trừng phạt; tránh làm mất danh giá và bạn bè; muốn lương tâm khỏi bị cắn rứt, etc.. Cũng có những lý do mang tính thần học làm hài lòng Thượng đế, vì đời sống mai sau, sợ bị trừng phạt, muốn lập công đức. Mặc khác, câu hỏi “Tại sao phải sống đạo đức?” cũng là một câu hỏi đạo đức học vì “sống chính trực” đồng nghĩa với “có một đời sống tốt.” Nếu sống đạo đức tức là đang tìm kiếm một đời sống “tốt hơn” những ham muốn tầm thường và cố gắng thăng tiến cuộc sống tới cùng một sự thiện “cao thượng” hơn. thì đó cũng chính là mục đích của đạo đức học vậy. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ ĐẠO ĐỨC HỌC Siêu hình học nghiên cứu các vấn nạn về thực tại và hữu thể Thế nào là tồn tại? Cơ cấu của hữu thể là gì? Đâu là bản chất hay hình thức của hiện hữu? Tri thức luận tra cứu về nền tảng cho tri thức Dựa trên cơ sở gì để chúng ta đi đến kết luận là có tri thức hay hiểu biết về một điều gì đó? Kinh nghiệm? Lý trí? Ý niệm? Trực giác? Hay phối hợp các yếu tố này? Đạo đức học chú tâm vào các hành vi nhân vị. Nên sống như thế nào là tốt? Nên chọn lựa hay phán đoán như thế nào là đúng? Dùng tiêu chuẩn nào để xác định tốt/xấu hay đúng/sai? Đâu là những điều kiện để chúng ta khẳng định một phán đoán đạo đức, hay chọn một giá trị đạo đức? I. THỜI CỔ HY LẠP Tìm kiếm đức hạnh A. Thời Tiền-Socrates Đạo đức là vấn đề tìm sự quân bình giữa hai bản năng “tinh thần” spirit và “dục vọng” passion của con người. Cũng giống như một kỵ mã phải điều khiển hai con ngựa chiến, mỗi con muốn kéo cỗ xe ngựa đi theo hướng riêng của nó, thì con người tìm hạnh phúc qua cách điều khiển cả hai đi theo hướng mình muốn. Tinh thần cao quá độ có thể trở thành hiếu thắng làm mất trí khôn, nhưng dục vọng quá nhiều cũng sẽ làm tê liệt khả năng phán đoán của con người. - Phái Khoái lạc Epicurus Thước đo hành động của chúng ta là mức độ thỏa mãn mà hành động đó mang lại. Mỗi người cần tìm cuộc sống thoải mái với một sự thỏa mãn quân bình, cần loại trừ những nỗi lo lắng vô căn cứ như Thượng đế hay hình phạt đời sau. - Phái khắc kỷ Stoic Muốn tìm hạnh phúc chúng ta cần kiểm soát những yếu tố nằm trong khả năng của mình thái độ, phán đoán, niềm tin; và tránh tìm cách thay đổi những điều ngoài tầm tay của chúng ta đau khổ, cái chết. Hạnh phúc con người chính là sự “khôn ngoan”, là biết cách sống cho phù hợp với những qui luật mà lý trí khám phá ra về vũ trụ và thế giới bên ngoài. - Phái hoài nghi Không có những chuẩn mực đúng hay sai tuyệt đối. Giác quan có thể đánh lừa chúng ta. Hạnh phúc tiềm tàng trong khả năng sống với sự tương đối và trong phạm vi những gì có thể đạt được. Đau khổ hay bất hạnh là những người đi tìm chuẩn mực đạo đức tuyệt đối. - Phái ngụy biện Chối bỏ mọi đạo đức truyền thống, con người là thước đo cho chính mình; dùng tài hùng biện để thắng trong những cuộc tranh luận và thuyết phục người khác nhìn nhận “chân lý” của mình. Chân lý thuộc về kẻ thắng. Tương đối và hoài nghi là hai chủ thuyết nền tảng của trường phái ngụy biện. B. Socrates 469-399 BC Phản biện lại nhóm Ngụy Biện, Socrates chủ trương rằng tri thức phải gắng liền với khả năng nhận thức và thực hành điều thiện hảo hầu mang lại hạnh phúc cho chính mình và tha nhân. Khủng hoảng trong xã hội thảnh Athens đến từ sự bại chiến với Persia đặt lại vấn đề về cách sống, đưởng lối huấn luyện và giáo dục giới trẻ, tương quan giữa sự thiện và niềm tin tôn giáo hay thần thánh? Khủng hoảng là thời gian thích hợp để suy tư về nền tảng đạo đức, truy vấn về cách chúng ta suy tư, phán đoán và tìm kiếm chân lý để đạt đến một cuộc sống thiện hảo. Giữa hai quan điểm sự thiện là “bẩm sinh” và là kết quả của “tài tranh cãi” thì Socrates chọn con đường thứ ba. Đó là con người qua đối thoại, phản tỉnh, biện chứng pháp, tiến trình tiệm tiến của nổ lực tìm chân lý chung, sẽ giúp chúng ta gia tăng ý thức về những “giả định” chung về đức hạnh. Qua hội thoại “Euthyphro”, Socrates cho thấy rằng các giá trị đạo đức thì không lệ thuộc vào thần thánh, tôn giáo, cảm tính, thói quen xã hội, quyền lực hay ý thức hệ. Nhận thức về sự vô tri của mình là khởi điểm của khôn ngoan. Socrates bị kết án là gây hoang mang trong giới thanh niên thành Athens, bị bỏ tù và bị ép uống thuốc độc mà chết. Ông từ chối đào tẩu vì lẽ nhà nước đại diện cho đạo đức tập thể vốn là nền tảng của chế độ dân chủ và kết quả của việc suy tư thuần lý và tôn trọng lý trí một cách tối đa. Socrates chấp nhận hình phạt của nhà nước dân chủ thì cũng như bất kỳ người lính nào cũng phải sẵn sàng chấp nhận cái chết khi ra chiến trận. Nhưng cái chết của Socrates cũng là một sự mỉa mai cho nền dân chủ dựa trên tranh cãi và hùng biện vốn đang che lấp một ý thức hệ ngụy biện của nhóm lợi ích nào đó. Socrates xác tín rằng lý trí có thể phát triển một số những nguyên tắc đạo đức vốn tiềm tàng trong trong cách chúng ta phán đoán về niềm tin, hành động và chọn lựa. Nhận ra sự vô tri của chính mình là khởi đầu của hành trình khôn ngoan. Khả năng phản tỉnh là “con đường vàng” dẫn đến tri thức thực sự. Con người, hãy tự biết mình! Mortals, Know thyself! C. Plato 428-348 BC -Thực thể tối hậu tồn tại trong thế giới ý niệm. Plato dùng mô hình toán học để diễn đạt tri thức. Ông thiết lập một nền tảng siêu hình nhằm đưa ra giải pháp cho những vấn nạn của Socrates. Thiện hảo và công lý tồn tại độc lập với chúng ta. Chúng ta là những linh hồn bị cầm tù trong thể xác, chúng ta có thể hồi tưởng lại tri thức về các “ý niệm” đã được tạc ghi vào linh hồn chúng ta trong quá khứ. Giáo dục e-ducare là tiến trình hồi tưởng lại các thị kiến về điều Thiện. Vì thế, sự thiện hảo, công bằng, đức hạnh, etc., là những ý niệm tuyệt đối, tồn tại ở thế giới ý niệm. Cho dù trong thế giới khả giác chúng ta chưa hề bắt gặp sự thiện tuyệt đối nhưng ta có thể dùng lý trí để hồi tưởng lại tri thức về các thực tại tuyệt đối này. Dụ ngôn “Cái Hang” Trong tác phẩm Nền Cộng Hòa, Plato dùng dụ ngôn Cái Hang để phân biệt ra hai tầm mức thực tại thế giới vĩnh cửu và thế giới tạm bợ. Tìm hiểu về Đạo Đức thì cũng như các nô lệ đang bị giam cầm nơi hang sâu, chỉ nhìn thấy hình bóng của những gì xảy ra chập chờn trên vách hang đá. Chỉ khi được giải thoát ra ngoài thì mới ý thức là sự tồn tại của mình trong thế giới khả giác trước đây chỉ là ảo ảnh của thực tại bất biến và vĩnh hằng bên ngoài hang tối. Ý nghĩa của dụ ngôn “Cái Hang” Bị trói buộc thân xác nặng nề vì vui thú nhục dục sẽ đè nặng xuống, ngăn cản suy tư đạo đức. Trong bóng tối thế giới nhỏ bé, thiếu kinh nghiệm, không sẵn sàng đón nhận tri thức. Bóng in trên tường mỗi người là thước đo cho chính mình, quan tâm đến mình, chấp nhận bất điều gì mà không biết phê phán. Ánh sáng bên ngoài và sự mù lòa ban đầu nỗi đau đớn khi học biết những chân lý mới, cảm xúc khó chịu khi ý tưởng của ta bị thách đố. Cần “từ bỏ bóng tối” thống trị bởi các đam mê và dục vọng. Nhận ra những bóng tối của chính mình để được tự do theo đuổi tri thức. Tri thức chân thật đòi hỏi sự kỷ luật, quay đầu khỏi các đam mê, và hồi tưởng lại những gì linh hồn đã biết. Trí khôn con người có phần lý tính và phần phi lý tính phần tiếp xúc với thân xác. Do đó hạnh phúc của con người sống trên đời này là dùng lý trí để điều khiển dục vọng và tinh thần. Tri thức luận của Plato gồm bốn bước đi lên hình ảnh, sự vật, toán học, ý niệm, tương đương với bốn mức độ nhận thức tưởng tượng, tin tưởng, suy gẫm và tri thức thật sự. D. Aristote 384-322 BC Aristote phê bình đạo đức học của Plato là lôi cuốn con người đi quá xa khỏi thực tại mình đang sống. Aristote cho rằng bản chất hình thức của sự vật không ở trong thế giới cách biệt ý niệm nhưng trong chính vật chất. Aristote dùng mô hình sinh học biết điều gì nghĩa là nhận ra các bộ phận của nó hoạt động như thế nào trong một toàn thể để nó phát triển hoàn toàn chức năng của nó. Mọi thực thể đều có bản chất và hình thức; hành động được hiểu theo ý hướng và mục đích. Điều mang lại hạnh phúc không hệ tại ở sự vật hay hành động nhưng là trong ý định hay mục đích. Như vậy “sự thiện” của một sự vật là điều kiện vốn giúp nó đạt đến hay hoàn thành ý định hay mục tiêu của nó. Điều kiện này chính là “điểm trung dung” giữa sự thái quá và bất cập. Nhân đức là tương quan đúng đắn giữa sự thái quá và khiếm khuyết khôn ngoan, can đảm. Nhân đức là thói quen chọn những gì tốt nhất để mình có thể phát triển hoàn thành chức năng cao nhất của mình, đó chính là lý trí. Tác phẩm Nicomachean Ethics là bản văn đầu tiên về đạo đức trong nền văn minh Tây phương. Aristote cho rằng không có hình thức nào có thể tồn tại tách biệt khỏi đối tượng. Không có sự thiện hảo nào tồn tại tách biệt khỏi kinh nghiệm sống hàng ngày. Chúng ta biết điều tốt nhờ vào việc quan sát cách thức người ta nỗ lực đạt được điều thiện. Tình bạn hữu chân thật mong ước điều thiện cho người khác chỉ vì họ mà thôi là động lực tối hảo cho việc vun trồng nhân đức. Trong khi tập nhân đức, tìm kiếm sự thiện hảo qua cách chọn cái trung dung, con người phải tận dụng lý trí. Do đó, đời sống lý trí có hai hướng song song theo đuổi chân lý trí thông minh và sự hiểu biết và theo đuổi nhân đức sự trung dung giữa thái quá và khiếm khuyết. Đây là mô hình “sinh học” bạn chỉ biết bản chất của một vật khi bạn nắm bắt được toàn bộ tiềm năng của nó. Vì con người là động vật có lý trí, tiềm năng lý trí sẽ đưa chúng ta đến hạnh phúc; trong tiến trình này, chúng ta có thể học biết điều thiện hảo. II. THỜI TRUNG CỔ đức tin và lý trí Vấn đề Lý trí nâng đỡ hay cản trở đức tin trong khi truy tầm nhận thức về điều đúng hay sai. Một mình lý trí có thể nắm bắt được bản chất của luân lý hay không? A. Thánh Augustine 354-430 ánh sáng nội tại Khuynh hướng nhị nguyên có hai loại nhận thức, hay hai thành đô. Thành đô Thiên Chúa và thành đô con người; thế tục đối ngược với thánh thiêng. Có hai trật tự tự nhiên khả giác, thành đô con người, công ích, thế tục và siêu nhiên khả tri, thành đô Thiên Chúa, vĩnh cửu. Vai trò của niềm tin Kitô, Giáo Hội, Kinh Thánh Đạo đức Kitô giáo hướng đến tìm kiếm những giá trị bất biến, vĩnh cửu. Triết học đưa đến sự hiểu biết còn thần học đưa đến sự khôn ngoan. Thánh Augustin viết hơn 700 tác phẩm, đáng lưu ý nhất là cuốn Tự thuật và Thành đô của Thiên Chúa. Tính nhị nguyên của thánh Augustine đời sống lý trí hướng đến hạnh phúc tạm thời, điều thiện tự nhiên và chóng qua, và đời sống đức tin đưa đến sự cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu, điều thiện siêu nhiên. Vì cuộc đời này chỉ là sự chuẩn bị cho đời sau cho nên không thể tìm thấy hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu ở đây. Con người sa ngã do nguyên tội nhưng vẫn còn ý chí tự do và trách nhiệm đối với các hành vi của mình. Vì lẽ đó, nhân đức có thể luyện tập được nhưng giá trị thực sự phải được thúc đẩy bởi niềm tin vào Thiên Chúa hằng hữu. Con người sống như khách lữ hành trong thế giới này. B. Thomas Aquinas 1225-1274 lý trí phối hợp với đức tin Lý trí đưa đến các nhân đức trí tuệ; nhưng đức tin đưa đến nhân đức đối thần. Lý trí là tiếng nói của lương tâm. Một mình lý trí thông thường có thể đạt đến hiểu biết quy luật tự nhiên. Tôma tái khám phá và Kitô hóa triết học của Aristote, tạo nên một sự hài hòa giữa nền đạo đức tự nhiên và đạo đức hướng thần. Phạm vi sáng tác của Tôma rất rộng, quan trọng nhất là tác phẩm Summa Theologica, và Summa Contra Gentes. Đạo đức tự nhiên bao gồm việc phát triển khả năng của lý trí đồng thời thực hành đời sống luân lý; đạo đức tự nhiên đưa con người đến hạnh phúc trần thế. Đạo đức hướng thần bao gồm việc đạt được các nhân đức hướng thần tin-cậy-mến nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Tôma cho rằng Luật tự nhiên – Luật siêu nhiên được viết trong tâm hồn – được khám phá bởi lý trí và trau dồi bởi lương tâm. Khi chấp nhận tính độc lập và khả năng đạt đến chân lý của lý trí, đạo đức học của Tôma có một lối nhìn mang tính khoa học hơn về con người. Sống đạo đức là biết sống tuân theo bốn qui luật luật vĩnh cửu, luật tự nhiên, luật xã hội, và luật Thiên Chúa. III. CÁC KHUYNH HƯỚNG CẬN ĐẠI 1. Luân lý “Tự Vệ” versus luân lý “Đồng Cảm” Hobbes 1588-1679 nhà tư tưởng đầu tiên tiếp cận đạo đức một cách hệ thống theo quan điểm khoa học. Trong tự nhiên, tự bản chất con người tìm kiếm sự bảo toàn cho chính mình. Trong tình trạng tự nhiên, đúng hay sai không tồn tại, không có luân lý. Chỉ khi xã hội dân sự hình thành và khi mọi người sẵn sàng đồng ý cống hiến trọn vẹn lòng trung thành cho đất nước thì đạo đức mới có thể thực hiện được. Nhà nước có thể trừng phạt những hành động ngăn trở hoặc ban thưởng cho những hành động cổ võ công ích và sự an toàn của người dân. Do đó, đạo đức học đối với Hobbes xuất phát từ nhu cầu tự vệ. David Hume 1711-1766 ngược lại với cái nhìn đạo đức mang tính cơ học và duy vật của Hobbes, Hume cho rằng cảm giác về sự đau đớn đưa chúng ta đến việc suy tư và hình thành nên những quan niệm về công lý và điều thiện, từ đó tạo nên một hệ thống các phán đoán luân lý. Luân lý có khía cạnh khách quan kết quả của hành động và chủ quan cảm giác về mức độ hài lòng mà người khác có được. Một mình lý trí không thể trả lời hết những vấn nạn luân lý, nhưng cần một “sự đồng cảm luân lý” trong việc chọn lựa điều gì hữu ích hay hài lòng để hành động. 2. Đạo đức học “Bổn Phận” versus Đạo đức học “Hậu Quả” Emanuel Kant deontology, bổn phận Con người muốn được tự do theo đuổi lý tưởng đạo đức của mình mà không bị trói buộc bởi bất cứ áp lực gì từ bên ngoài. Do đó, chúng ta cảm thấy có bổn phận và trách nhiệm làm “đúng” hay làm theo “lẽ phải” dù điều đó mang lại lợi ích hay không lợi ích cho mình. Vì muốn được tự do và đạt đến hạnh phúc thực sự, chúng ta tuân theo “mệnh lệnh tuyệt đối”. Điều cao thượng nhất trên đời này chính là ý chí muốn thực hành điều đúng bất kể nó có mang lại hậu quả tốt cho mình hay không “The highest good is the good will.” John Stuart Mill consequentialism, chủ thuyết hậu quả. Hậu quả là nguồn gốc của đạo đức học vị lợi. Đạo đức nhắm vào những giá trị có thể gia tăng tối đa hậu quả “tốt nhất” cho mọi người. Hành vi đạo đức là hành vi mang lại lợi ích tối đa cho nhiều người nhất. Đạo đức vị lợi là sự trung dung giữa vị tha và vị kỷ, luôn tìm hành vi mang đến hậu quả “tốt” thay vì “đúng”, cho nên nhiều khi hậu quả của “hành vi” vị lợi và hậu quả của “nguyên tắc” vị lợi có thể mâu thuẫn nhau. Do đó cần phải có sự cân bằng giữa hai khía cạnh này của vị lợi. “Luôn luôn phải chọn hành vi mang lại lợi ích tốt nhất cho nhiều người nhất” Mill. IV. CÁC VẤN ĐỀ TRONG ĐẠO ĐỨC HỌC HIỆN NAY 1. Đạo đức giới tính gender ethics Khám phá những nguyên tắc đạo đức “vô hình” nhưng bất công đối với phụ nữ hay người đồng tính đang tiềm tàng trong sinh hoạt của nhiều tầng lớp xã hội, ước khế lao động, tổ chức tôn giáo, và cách đối xử giữa con người với nhau. Đạo đức học giới tính muốn tìm những tiêu chuẩn đạo đức công bằng hơn về giới tính, và tôn trọng nhân phẩm của mọi người trong mọi bối cảnh văn hóa, xã hội, tôn giáo và ngôn ngữ. 2. Đạo đức môi sinh environmental ethics Trong tiến trình phát triển kinh tế và xã hội, môi trường đã bị khai thác và lạm dụng đến mức gây tổn hại lâu dài đến sức khỏe con người và sự sống trên hành tinh này. Đạo đức học môi sinh cố gắng tìm những nguyên tắc đạo đức có khả năng hồi phục lại sự quân bình giữa phát triển kinh tế và nhu cầu của con người với sự sinh tồn của các sự sống khác trong tự nhiên. 3. Đạo đức học sự sống bio-ethics & medical ethics Những tiến bộ gần đây và trong ngành y khoa công nghệ sinh sản IVF, liệu pháp gen, chọn lựa tiền sản, nhân giống vô tính, kéo dài sự sống, khả năng tạo ra những hỗn hợp người-động vật, etc. đã thử thách y đức Hippocrates và luân lý Kitô giáo cổ điển. Kỹ thuật tân tiến về chăm sóc và kết thúc sự sống đã biến quyết định giữa bác sĩ và bệnh nhân thành những tranh cãi công chúng về các vấn nạn rất nhân bản về sự sống con người lúc ban đầu cũng như giá trị của cuộc sống của người khuyết tật. Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi ta xét khía cạnh bảo vệ động vật và sinh thái học. Các nhà đạo đức sinh học đang bận rộn tìm những nguyên tắc đạo đức hầu để hướng dẫn các chọn lựa hay phán đoán không chỉ trong y khoa và sinh thái học mà cả về các giới hạn của thí nghiệm khoa học. 4. Siêu học thuyết về đạo đức meta-ethics Trong thế kỷ gần đây, các triết gia bắt đầu chú tâm đến khía cạnh logic, ngôn ngữ của lý luận, tiến trình suy tư và hành động trong ngành đạo đức học. Chuyên gia nghiên cứu siêu học thuyết về đạo đức không đưa ra đề nghị chúng ta nên phán đoán như thế nào, nhưng trái lại tìm kiếm tri thức về bản chất của ngôn ngữ đạo đức, về cơ cấu của phán đoán đạo đức, và mối tương quan của các loại đạo đức học. Linh Mục Josheph Nguyễn Đoàn Tân, Ofm Tài liệu tham khảo Joseph Nguyễn Đoàn Tân, Đạo Đức Học Tổng Quát, NXB Phương Đông, 2016
“Đạo đức học đức hạnh” mô tả một cách tiếp cận triết học nhất định đối với các câu hỏi về đạo đức. Đó là một lối suy nghĩ về đạo đức đặc trưng của các triết gia Hy Lạp và La Mã cổ đại, đặc biệt là Socrates , Plato và Aristotle . Nhưng nó đã trở nên phổ biến trở lại kể từ cuối thế kỷ 20 do công của các nhà tư tưởng như Elizabeth Anscombe, Philippa Foot và Alasdair MacIntyre. Câu hỏi trung tâm về đạo đức đức hạnh Tôi phải sống như thế nào? Đây có một tuyên bố chính xác là câu hỏi cơ bản nhất mà bạn có thể tự đặt ra cho mình. Nhưng nói về mặt triết học, có một câu hỏi khác có lẽ phải được trả lời trước tiên đó là, Tôi nên quyết định cách sống như thế nào? Có một số câu trả lời có sẵn trong truyền thống triết học phương Tây Câu trả lời mang tính tôn giáo Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta một bộ quy tắc để tuân theo. Những điều này được trình bày trong kinh thánh ví dụ Kinh thánh tiếng Do Thái, Tân ước, kinh Koran. Cách sống đúng đắn là tuân theo những quy tắc này. Đó là lẽ sống tốt đẹp của một con người. Chủ nghĩa lợi dụng Đây là quan điểm cho rằng điều quan trọng nhất trên thế giới trong việc thúc đẩy hạnh phúc và tránh đau khổ. Vì vậy, cách sống đúng đắn, nói chung, là cố gắng thúc đẩy hạnh phúc nhất có thể mà bạn có thể, cho cả của bạn và của người khác - đặc biệt là những người xung quanh bạn - trong khi cố gắng tránh gây ra đau đớn hoặc bất hạnh. Đạo đức học Kant Nhà triết học vĩ đại người Đức I mmanuel Kant lập luận rằng quy tắc cơ bản mà chúng ta nên tuân theo không phải là “Tuân theo luật của Chúa”, cũng không phải là “Thúc đẩy hạnh phúc”. Thay vào đó, ông tuyên bố rằng nguyên tắc cơ bản của đạo đức là Luôn hành động theo cách mà bạn có thể thành thật muốn mọi người hành động nếu họ ở trong tình huống tương tự. Ông tuyên bố rằng bất kỳ ai tuân thủ quy tắc này sẽ hành xử hoàn toàn nhất quán và hợp lý, và họ sẽ không ngừng làm điều đúng đắn. Điểm chung của cả ba cách tiếp cận là họ xem đạo đức như một vấn đề tuân theo các quy tắc nhất định. Có những quy tắc rất chung, cơ bản, chẳng hạn như "Đối xử với người khác như cách bạn muốn được đối xử" hoặc "Thúc đẩy hạnh phúc". Và có rất nhiều quy tắc cụ thể hơn có thể được suy ra từ những nguyên tắc chung này ví dụ "Không làm chứng dối" hoặc "Giúp đỡ người nghèo." Cuộc sống tốt về mặt đạo đức là một cuộc sống được sống theo những nguyên tắc này; hành vi sai trái xảy ra khi các quy tắc bị phá vỡ. Trọng tâm là nghĩa vụ, nghĩa vụ và tính đúng hay sai của các hành động. Cách nghĩ của Plato và Aristotle về đạo đức có một điểm nhấn khác. Họ cũng hỏi "Một người nên sống như thế nào?" Nhưng câu hỏi này tương đương với “Người ta muốn trở thành người như thế nào?” Nghĩa là loại phẩm chất và đặc điểm tính cách nào đáng ngưỡng mộ và đáng mơ ước. Cái nào cần được trau dồi ở chính chúng ta và những người khác? Và chúng ta nên tìm cách loại bỏ những đặc điểm nào? Tài khoản của Aristotle về đức hạnh Trong tác phẩm vĩ đại của mình, Đạo đức học Nicomachean , Aristotle đưa ra một phân tích chi tiết về các đức tính đã có ảnh hưởng to lớn và là điểm khởi đầu cho hầu hết các cuộc thảo luận về đạo đức học. Thuật ngữ Hy Lạp thường được dịch là "đức hạnh" là arête. Nói chung, arête là một loại xuất sắc. Nó là một phẩm chất cho phép một vật thực hiện mục đích hoặc chức năng của nó. Loại xuất sắc được đề cập có thể dành riêng cho những loại sự vật cụ thể. Ví dụ, đức tính chính của ngựa đua là nhanh nhẹn; đức tính chính của một con dao là phải sắc bén. Những người thực hiện các chức năng cụ thể cũng đòi hỏi những đức tính cụ thể ví dụ như một kế toán viên có năng lực phải giỏi các con số; một người lính cần phải dũng cảm về thể chất. Nhưng cũng có những đức tính tốt cho bất kỳcon người cần sở hữu những phẩm chất giúp họ có thể sống tốt đẹp và thăng hoa như một con người. Vì Aristotle cho rằng điều phân biệt con người với tất cả các loài động vật khác là tính hợp lý của chúng ta, cuộc sống tốt đẹp cho con người là cuộc sống trong đó các khả năng lý trí được thực hiện đầy đủ. Chúng bao gồm những thứ như khả năng kết bạn, sự tham gia của người dân, khả năng thưởng thức thẩm mỹ và sự tìm hiểu về trí vậy, đối với Aristotle, cuộc sống của một củ khoai tây đi văng tìm thú vui không phải là một ví dụ về cuộc sống tốt đẹp. Aristotle phân biệt giữa các đức tính trí tuệ, được thực hiện trong quá trình suy nghĩ và các đức tính đạo đức, được thực hiện thông qua hành động. Ông quan niệm phẩm hạnh đạo đức là một đặc điểm tính cách tốt để có được và một người thể hiện theo thói quen. Điểm cuối cùng về hành vi theo thói quen này là quan trọng. Người hào phóng là người thường xuyên hào phóng chứ không chỉ hào phóng thỉnh thoảng. Một người chỉ giữ một số lời hứa của họ không có đức tính đáng tin cậy. Thực sự cóđức tính để nó ăn sâu vào nhân cách của bạn. Một cách để đạt được điều này là tiếp tục thực hành đức tính để nó trở thành thói quen. Vì vậy, để trở thành một người thực sự hào phóng, bạn nên tiếp tục thực hiện những hành động hào phóng cho đến khi sự hào phóng đến với bạn một cách tự nhiên và dễ dàng; như người ta nói, nó trở thành “bản chất thứ hai”. Aristotle lập luận rằng mỗi phẩm hạnh đạo đức là một loại ý nghĩa nằm giữa hai thái cực. Một thái cực liên quan đến sự thiếu hụt đức tính được đề cập, thái cực khác liên quan đến việc sở hữu nó đến mức quá mức. Ví dụ, "Quá ít can đảm = hèn nhát; quá nhiều can đảm = liều lĩnh. Quá ít hào phóng = keo kiệt; quá hào phóng = ngông cuồng." Đây là học thuyết nổi tiếng về “ý nghĩa vàng”. “Ý nghĩa”, như Aristotle hiểu, nó không phải là một dạng điểm nửa trong toán học giữa hai thái cực; đúng hơn, nó là những gì phù hợp trong hoàn cảnh. Thực sự, kết quả của lập luận của Aristotle dường như là bất kỳ đặc điểm nào mà chúng ta coi là một đức tính đều được rèn luyện bằng trí tuệ. Sự khôn ngoan thực tế từ tiếng Hy Lạp là phronesis , mặc dù nói một cách chính xác là một đức tính trí tuệ, hóa ra lại là chìa khóa tuyệt đối để trở thành một người tốt và sống một cuộc sống tốt đẹp. Có trí tuệ thực tế có nghĩa là có thể đánh giá những gì được yêu cầu trong bất kỳ tình huống nào. Điều này bao gồm việc biết khi nào người ta nên tuân theo một quy tắc và khi nào người ta nên phá vỡ quy tắc đó. Và nó gọi là kiến thức, kinh nghiệm, sự nhạy cảm về cảm xúc, khả năng nhận thức và lý trí. Ưu điểm của Đạo đức đức hạnh Đạo đức học đức hạnh chắc chắn không mất đi sau Aristotle. Các nhà Khắc kỷ La Mã như Seneca và Marcus Aurelius cũng tập trung vào tính cách hơn là các nguyên tắc trừu tượng. Và họ cũng coi phẩm hạnh đạo đức là yếu tố cấu thành cuộc sống tốt - nghĩa là, trở thành người tốt về mặt đạo đức là yếu tố then chốt để sống tốt và hạnh phúc. Không ai thiếu đức hạnh có thể sống tốt, ngay cả khi họ có của cải, quyền lực và nhiều thú vui. Các nhà tư tưởng sau này như Thomas Aquinas 1225-1274 và David Hume 1711-1776 cũng đưa ra các triết lý đạo đức trong đó các nhân đức đóng vai trò trung tâm. Nhưng công bằng mà nói, đạo đức nhân đức đã lùi bước trong thế kỷ 19 và 20. Sự phục hưng của đạo đức học đạo đức vào giữa cuối thế kỷ 20 được thúc đẩy bởi sự không hài lòng với đạo đức học theo định hướng quy tắc, và sự đánh giá ngày càng cao về một số ưu điểm của phương pháp tiếp cận Aristoteles. Những lợi thế này bao gồm những điều sau đây. Đạo đức học đức hạnh đưa ra một quan niệm rộng hơn về đạo đức học nói chung. Nó không coi triết học đạo đức chỉ giới hạn trong việc tìm ra hành động nào là đúng và hành động nào là sai. Nó cũng hỏi điều gì tạo nên hạnh phúc hay sự hưng thịnh của con người. Chúng ta có thể không có bổn phận phải phát triển theo cách mà chúng ta có bổn phận không phạm tội giết người; nhưng những câu hỏi về hạnh phúc vẫn là những câu hỏi chính đáng cho các triết gia đạo đức cần giải quyết. Nó tránh được những điều không linh hoạt của đạo đức định hướng quy tắc. Theo Kant, chẳng hạn, chúng ta phải luôn luôn và trong mọi hoàn cảnh tuân theo nguyên tắc đạo đức cơ bản của ông, “mệnh lệnh có tính xác định” của ông. Điều này khiến anh ta kết luận rằng không bao giờ được nói dối hoặc thất hứa. Nhưng người khôn ngoan về mặt đạo đức chính xác là người nhận ra thời điểm hành động tốt nhất là phá vỡ các quy tắc thông thường. Đạo đức học đức hạnh đưa ra các quy tắc ngón tay cái, không phải là sự cứng nhắc bằng sắt. Bởi vì nó liên quan đến tính cách, với con người như thế nào, đạo đức học nhân đức quan tâm nhiều hơn đến trạng thái và cảm xúc bên trong của chúng ta thay vì chỉ tập trung vào hành động. Đối với một người thực dụng, điều quan trọng là bạn làm đúng - nghĩa là bạn thúc đẩy niềm hạnh phúc lớn nhất của con số lớn nhất hoặc tuân theo một quy tắc phù hợp với mục tiêu này. Nhưng trên thực tế, đây không phải là tất cả những gì chúng ta quan tâm. Điều quan trọng là tại sao một người nào đó hào phóng hay hữu ích hoặc trung thực. Người trung thực đơn giản vì họ nghĩ rằng trung thực là tốt cho công việc kinh doanh của họ thì ít đáng ngưỡng mộ hơn người trung thực xuyên suốt và không lừa dối khách hàng ngay cả khi họ có thể chắc chắn rằng không ai phát hiện ra họ. Đạo đức học đức hạnh cũng đã mở ra cánh cửa cho một số cách tiếp cận và hiểu biết mới lạ do các nhà tư tưởng nữ quyền đi tiên phong, những người cho rằng triết học đạo đức truyền thống đã nhấn mạnh các nguyên tắc trừu tượng đối với các mối quan hệ cụ thể giữa các cá nhân. Chẳng hạn, mối quan hệ ban đầu giữa mẹ và con có thể là một trong những nền tảng thiết yếu của đời sống đạo đức, vừa cung cấp kinh nghiệm vừa là tấm gương về sự quan tâm yêu thương dành cho người khác. Phản đối đạo đức đức hạnh Không cần phải nói, đạo đức nhân đức có những người chỉ trích nó. Dưới đây là một số lời chỉ trích phổ biến nhất chống lại nó. "Làm thế nào tôi có thể phát triển?" thực sự chỉ là một cách đặt câu hỏi "Điều gì sẽ khiến tôi hạnh phúc?" Đây có thể là một câu hỏi hoàn toàn hợp lý để hỏi, nhưng nó thực sự không phải là một câu hỏi đạo đức. Đó là một câu hỏi về tư lợi của một người. Tuy nhiên, đạo đức là tất cả về cách chúng ta đối xử với người khác. Vì vậy, sự mở rộng đạo đức học này bao gồm các câu hỏi về sự phát triển mạnh mẽ sẽ khiến lý thuyết đạo đức không còn quan tâm đúng mức đến nó. Đạo đức đức hạnh tự nó không thể thực sự trả lời bất kỳ tình huống khó xử về đạo đức cụ thể nào. Nó không có công cụ để làm điều này. Giả sử bạn phải quyết định có nên nói dối hay không để cứu bạn mình khỏi xấu hổ. Một số lý thuyết đạo đức cung cấp cho bạn hướng dẫn thực sự. Nhưng đạo đức nhân đức thì không. Nó chỉ nói, "Hãy làm những gì một người có đạo đức sẽ làm", điều này không được sử dụng nhiều. Đạo đức được quan tâm, trong số những thứ khác, với việc khen ngợi và đổ lỗi cho mọi người về cách họ cư xử. Nhưng tính cách của một người ở một mức độ khá lớn là do may mắn. Con người có tính khí tự nhiên dũng cảm hoặc nhút nhát, đam mê hoặc dè dặt, tự tin hoặc thận trọng. Thật khó để thay đổi những đặc điểm bẩm sinh này. Hơn nữa, hoàn cảnh mà một người được nuôi dạy cũng là một yếu tố khác hình thành nhân cách đạo đức của họ nhưng nằm ngoài tầm kiểm soát của họ. Vì vậy, đạo đức nhân đức có xu hướng khen ngợi và đổ lỗi cho con người chỉ vì may mắn. Đương nhiên, các nhà đạo đức học tin rằng họ có thể trả lời những phản đối này. Nhưng ngay cả những nhà phê bình đưa ra chúng cũng có thể đồng ý rằng sự phục hưng của đạo đức học trong thời gian gần đây đã làm phong phú thêm triết học đạo đức và mở rộng phạm vi của nó một cách lành mạnh.
triết học đạo đức